Với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, trong thời gian qua HĐND tỉnh Bình Phước luôn thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Từ đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021 đến nay, HĐND tỉnh đã tổ chức thành công 05 kỳ họp, trung bình mỗi kỳ họp thông qua 18 đến 22 nghị quyết quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương. Nhìn chung, việc ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Các nghị quyết khi ban hành cơ bản đảm bảo cụ thể hoá được Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ; Nghị quyết của Tỉnh ủy và phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, đảm bảo tính khả thi và được UBND tỉnh tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng và được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Để giúp HĐND tỉnh thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, Thường trực HĐND tỉnh Bình Phước xin chia sẻ một số kinh nghiệm sau:
1- Về cơ cấu tổ chức: Nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND tỉnh Bình Phước có 65 đại biểu. Thường trực HĐND tỉnh gồm: Chủ tịch HĐND do Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy kiêm nhiệm, 02 Phó Chủ tịch HĐND chuyên trách là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh ủy viên, HĐND tỉnh gồm 4 ban: Ban kinh tế - ngân sách, Ban văn hóa - xã hội, Ban pháp chế và Ban dân tộc, mỗi ban có hai lãnh đạo chuyên trách.
2- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND tỉnh: Nhiệm kỳ này, nhờ việc bố trí, tăng cường các đồng chí trong cấp ủy Đảng (UVBTV, TUV) giữ các chức danh trong Thường trực HĐND giúp nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND và nâng cao vị thế của HĐND; trước các kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh xin ý kiến Ban Thường vụ Tỉnh ủy về nội dung, thời gian tổ chức kỳ họp đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
3- Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: trên thực tế, tại tỉnh Bình Phước, trước ngày khai mạc kỳ họp khoảng 140 ngày, Thường trực HĐND tỉnh chủ động gửi Công văn đề nghị UBND tỉnh gửi đề nghị xây dựng Nghị quyết đến Thường trực HĐND tỉnh, để Thường trực HĐND tỉnh phân công cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết tại kỳ họp. Chậm nhất là 75 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, UBND tỉnh, các cơ quan soạn thảo, xây dựng, hoàn thiện xong dự thảo nghị quyết để tổ chức lấy ý kiến góp ý của đối tượng chịu sự tác động và thẩm định của Sở Tư pháp. Chậm nhất là 25 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, UBND trỉnh gửi đầy đủ hồ sơ dự thảo nghị quyết đến Ban của HĐND tỉnh được phân công thẩm tra để thẩm tra.
4- Thực hiện tốt công tác thẩm tra dự thảo nghị quyết trình tại kỳ họp của HĐND tỉnh: Để giúp nâng cao trách nhiệm, vai trò, chất lượng của hoạt động thẩm tra dự thảo nghị quyết, khi họp liên tịch chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh Bình Phước thống nhất với UBND tỉnh quy định ngày gửi dự thảo nghị quyết đến Ban để thẩm tra. Trong hoạt động thẩm tra, các Ban của HĐND tỉnh chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh ngay từ khi soạn thảo, tham dự đầy đủ các phiên họp của UBND tỉnh để thảo luận, thống nhất các nội dung sẽ thông qua tại kỳ họp HĐND tỉnh. Đối với những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, Ban của HĐND tỉnh họp lần thứ hai để thống nhất phương án xử lý. Với những nội dung thẩm tra phức tạp, các Ban phối hợp và tiến hành khảo sát tình hình làm cơ sở để thẩm tra. Đối với những dự thảo nghị quyết chưa có đầy đủ hồ sơ, căn cứ pháp lý, chưa phù hợp với tình hình thực tế thì Ban HĐND tỉnh yêu cầu bổ sung hoàn chỉnh hoặc đề nghị không trình ra kỳ họp HĐND tỉnh như: điều chỉnh quy hoạch bảo vệ phát triển rừng, quy hoạch 3 loại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 - 2020; phê duyệt biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2018; sửa đổi, bổ sung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Bình Phước,... hầu hết các báo cáo thẩm tra của các Ban đều nêu rõ chính kiến về vấn đề thẩm tra và có tính phản biện cao, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng nghị quyết kỳ họp HĐND tỉnh.
5- Tổ chức hiệu quả việc họp Tổ đại biểu trước kỳ họp HĐND tỉnh: kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được, nhiệm kỳ này, HĐND tỉnh Bình Phước thành lập 11 Tổ đại biểu. Trước kỳ họp HĐND tỉnh khoảng 07 đến 10 ngày, Thường trực HĐND tỉnh tổ chức cho các Tổ đại biểu họp Tổ để thảo luận, cho ý kiến đối với các báo cáo, dự thảo nghị quyết trình tại kỳ họp. Thường trực HĐND tỉnh sẽ định hướng hoặc dự kiến các vấn đề đưa ra thảo luận tại Tổ (Gợi ý thảo luận tổ). Tại buổi họp, Tổ trưởng Tổ đại biểu điều hành việc thảo luận, nêu những vấn đề quan trọng, cốt lõi cần tập trung tạo sự đồng thuận của đại biểu tại kỳ họp đối với những vấn đề quan trọng của địa phương.
6- Cụ thể hóa các văn bản của Trung ương vào tình hình thực tế của địa phương: với mục đích triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật năm 2015, HĐND tỉnh Bình Phước đã thông qua Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐND ngày 04/7/2016 Ban hành quy định cụ thể một số nội dung về hoạt động của HĐND tỉnh. Trong đó, có nội dung là Thường trực HĐND tỉnh được HĐND tỉnh ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND trong thời gian giữa hai kỳ họp, sau đó báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp gần nhất liên quan đến những lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, thu chi ngân sách.
7- Duy trì, tăng cường và thực hiện tốt quan hệ phối hợp giữa HĐND tỉnh với Đoàn ĐBQH tỉnh, UBND tỉnh và UBMTTQVN tỉnh Bình Phước nhất là trong công tác thông tin, hội họp và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thông qua Quy chế phối hợp công tác số 01/QCPH/Đ ĐBQH-TTHĐND-UBND-BTTUBMTTQVN ngày 30/3/2017 giữa Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, HĐND tỉnh còn gặp những khó khăn, hạn chế nhất định, như:
- Công tác chuẩn bị báo cáo, dự thảo nghị quyết, đề án trình kỳ họp HĐND tỉnh của cơ quan trình có lúc còn lúng túng, chưa tuân thủ đúng quy trình quy định của luật dẫn đến hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết còn thiếu; quy trình thực hiện chậm so với thời gian quy định.
- Những bất cập trong việc thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, như: thời gian xây dựng nghị quyết quá dài (khoảng 140 ngày), trong khi đó, quy trình, thời gian thẩm tra dự thảo nghị quyết của các Ban HĐND tỉnh được quy định rất ngắn (có 05 ngày để hoàn tất một quy trình thẩm tra) trước khi trình kỳ họp HĐND tỉnh; có sự trùng lắp về trình tự, thủ tục và bộ hồ sơ kèm theo khi ban hành văn bản QPPL của HĐND tỉnh, khiến cho thủ tục trở nên rườm rà, mất nhiều thời gian. Mặt khác, nghị quyết QPPL của HĐND tỉnh thông qua có hiệu lực sau 10 ngày, để triển khai, thực hiện, UBND tỉnh cần ban hành các quyết định kịp thời. Nhưng, quy trình xây dựng, ban hành quyết định của UBND tỉnh theo Luật cũng phải thực hiện tương tự như quy trình xây dựng, ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh. Do có nhiều quy trình, thủ tục nên việc ban hành quyết định của UBND tỉnh có lúc bị chậm trễ, kéo dài, khiến cho chính sách khi ban hành chậm đi vào cuộc sống,…
- Chưa có sự thống nhất trong quy định của trung ương về việc Hội đồng nhân dân ủy quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân nên khó khăn trong quá trình thực hiện, cụ thể: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 không quy định việc Hội đồng nhân dân ủy quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân (vấn đề này đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẳng định tại Công văn số 191/UBTVQH14-CTĐB ngày 19/10/2017). Tuy nhiên, có một số trường hợp nghị định của Chính phủ cho phép ủy quyền Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh như: theo quy định tại khoản 2, Điều 61 Nghị định số 136/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công thì Hội đồng nhân dân các cấp “Quyết định hoặc ủy quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, cho ý kiến, quyết định chủ trương đầu tư dự án sử dụng vốn đầu tư công thuộc cấp mình quản lý theo quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều 91 của Luật Đầu tư công.”,…
- Một số nghị quyết được ban hành nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện UBND tỉnh và các cơ quan liên quan chưa bố trí đủ nguồn lực, chưa quan tâm đúng mức đến giải pháp tổ chức thực hiện.
- Một số đại biểu chưa được trang bị những kiến thức cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng cho nên còn hạn chế trong quá trình giám sát và thẩm tra nghị quyết và sự tích cực; sự tâm huyết của một số đại biểu có lúc, có nơi còn hạn chế.
Do đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh trong việc thông qua nghị quyết quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Thường trực HĐND tỉnh Bình Phước xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để Hội nghị cùng tham khảo:
Thứ nhất: Thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là đảm bảo trình tự, thủ tục, thời gian; tuy nhiên, có thể rút ngắn thời gian đăng tải thông tin trên cổng thông tin điện tử. Tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, nhất là đối với những người trực tiếp tham mưu, tổ chức soạn thảo dự thảo nghị quyết của HĐND tỉnh.
Thứ hai: Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan soạn thảo. Để dự thảo nghị quyết có chất lượng, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; có kế hoạch, có sự chủ động và lựa chọn người có tâm huyết, có năng lực, trình độ chuyên môn sâu, am hiểu pháp luật và có kinh nghiệm để thực hiện; quan tâm việc lấy ý kiến của đối tượng chịu tác động của chính sách, tổ chức đối thoại trực tiếp về chính sách, đánh giá sát và bố trí đủ nguồn lực về tài chính để thực hiện, lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, làm tốt công tác thẩm định dự thảo nghị quyết.
Thứ ba: Các cơ quan chức năng Trung ương cần hướng dẫn thêm về quy trình ban hành văn bản QPPL của UBND tỉnh khi thực hiện theo nghị quyết của HĐND đã thông qua. Sau khi nghị quyết của HĐND đã có hiệu lực thi hành, UBND ban hành quyết định (quy phạm pháp luật) để triển khai thực hiện, nếu không có nhiều nội dung thay đổi so với nghị quyết của HĐND thì không nhất thiết phải thực hiện lại toàn bộ quy trình, thủ tục như khi tiến hành xây dựng nghị quyết. Như vậy sẽ giúp nghị quyết sớm được triển khai thực hiện.
Thứ tư: Theo luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh đã được nâng lên về số lượng và chất lượng, do đó trung ương cần quy định thống nhất việc Hội đồng nhân dân ủy quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân để Thường trực Hội đồng nhân dân có cơ sở thực hiện; đồng thời xem xét việc tăng thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong thời gian giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Thứ năm: Mỗi đại biểu HĐND tỉnh tích cực phát huy năng lực, tâm huyết, trách nhiệm, am hiểu sâu rộng, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt được tình hình thực tế của địa phương một cách có chiều sâu, dành thời gian thỏa đáng để đầu tư nghiên cứu kỹ các tài liệu kỳ họp để có những nhận định và đánh giá đúng mức những nội dung công việc được đặt ra tại các kỳ họp trước khi biểu quyết các Nghị quyết. Sau khi nghị quyết được ban hành, Thường trục HĐND và các Ban HĐND tỉnh phải quan tâm tổ chức giám sát, kiểm tra tình hình triển khai và thực hiện hiện nghị quyết đối với các cơ quan có liên quan để kiểm chứng về tính phù hợp thực tiễn, tính khả thi của nghị quyết từ đó có những đề xuất, định hướng giám sát cho phù hợp. (Trích tham luận Trình bày tại Hội nghị giao ban Thường trực HĐND các tỉnh,thành phố miền Đông Nam bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017)